Thời kỳ nắm quyền Tổng thống Anwar Al-Sadad

Al Sadat và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan năm 1981

Sau cái chết của Nasser năm 1970, Al Sadat tiếp quản chức vụ Tổng thống, nhưng người ta cho rằng nhiệm kỳ của ông sẽ sớm kết thúc. Nguyên nhân là nhiều người vẫn coi ông như "con rối" của vị cựu Tổng thống, và những người ủng hộ Nasser trong Chính phủ vẫn nghĩ có thể dễ dàng điều khiển Al Sadat. Tuy nhiên, Al Sadat đã khiến tất cả bất ngờ bằng những động thái chính trị kiên quyết và tự chủ. Sau khi nắm quyền, Al Sadat đã khởi xướng Cuộc cách mạng sửa đổi, thanh lọc Chính quyền, các định chế chính trị và an ninh từng được thiết lập dưới thời Nasser.

Năm 1971, tức 3 năm sau Cuộc chiến tiêu hao ở vùng kênh đào Suez, Al Sadat viết kèm một bức thư trong đề xuất gửi tới nhà đàm phán hòa bình Gunnar Jarring của Liên Hợp Quốc, đề nghị ngừng chiến với Israel, với điều kiện quân đội nước này rút khỏi vùng chiếm đóng. Tuy nhiên, sáng kiến hòa bình này đã thất bại do cả Israel và Mỹ từ chối ngồi vào bàn đàm phán.

Al Sadat có lẽ đã nhận thức được rằng việc Israel từ chối đàm phán bắt nguồn từ việc họ nhận ra sức mạnh quân sự của Ai Cập đã yếu đi sau Chiến tranh 6 ngày năm 1967. Ngoài ra, Israel cũng đã nhận ra mối đe dọa lớn nhất từ Ai Cập xuất phát từ khí tài và nhân lực Liên Xô. Đó là lý do khiến Al Sadat quyết định trục xuất các cố vấn Liên Xô về nước và cải tổ lại lực lượng quân sự nhằm đối đầu với Israel. Thời gian này, Ai Cập cũng đang phải gánh hậu quả nặng nề về kinh tế sau Cuộc chiến 6 ngày, và quan hệ với Liên Xô cũng xấu đi trông thấy sau khi Al Sadat khước từ sự giúp đỡ về quân sự.

Cuộc chiến tháng 10 năm 1973

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, cùng với Tổng thống Hafez al-Assad của Syria, Al Sadat phát động Chiến tranh Yom Kippur, còn được biết đến như Cuộc chiến tháng 10 hay Cuộc chiến Ramadan, một cuộc tập kích bất ngờ vào lực lượng Israel đóng ở bán đảo Sinai thuộc Ai Cập và cao nguyên Golan thuộc Syria nhằm giành lại phần lãnh thổ bị Israel chiếm 6 năm trước. Màn tấn công của người Ai Cập và Syria trong giai đoạn đầu của cuộc chiến (Chiến dịch Badr, hay Chữ Thập) khiến cả Israel và thế giới Ả Rập sửng sốt. Chiến công đáng kể nhất của quân đội Ai Cập là tiến sâu tới 15 km vào phần lãnh thổ bị chiếm đảo ở bán đảo Sinai và phá hủy gần như toàn bộ phòng tuyến Bar Lev, phòng tuyến tưởng như không thể công phá của Israel.

Sau đó, 3 đơn vị quân đội Israel (IDF) do Tướng Ariel Sharon chỉ huy đã vượt kênh đào Suez, cố gắng bao vây quân Ai Cập nhưng thất bại. Nhờ thỏa thuận giữa Mỹ và các đồng minh Xô Viết của Ai Cập, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc liền thông qua Nghị quyết 338 ngày 22 tháng 10 năm 1973, kêu gọi hai bên ngừng bắn. Mặc dù vậy, lệnh ngừng bắn lập tức bị vi phạm dù người ta chưa xác định bên nào chủ động. IDF sau đó vẫn tiếp tục bao vây quân đội Ai Cập, và hoàn thành vào ngày 25 tháng 10, đúng 3 ngày sau lệnh ngừng bắn.